Ung thư phổi, ung thư đại trực tràng, ung thư vú... là những bệnh ung thư phổ biến trên thế giới và có nguy cơ tử vong cao.
Tỷ lệ sống sót sau ung thư phụ thuộc vào loại ung thư, giai đoạn được chẩn đoán và phương pháp điều trị. Dưới đây là 5 loại ung thư nguy hiểm nhất theo phân tích, đánh giá và phân loại của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ.
Ung thư phổi
Ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới, thường không gây ra triệu chứng cho đến khi khối u phát triển lớn trong phổi hoặc lan sang các vùng khác của cơ thể. Vì vậy, nhiều bệnh nhân phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn muộn, tỷ lệ tử vong cao. Hút thuốc là một nguyên nhân phổ biến của bệnh này.
Tùy thuộc vào loại và giai đoạn, điều trị ung thư phổi bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, liệu pháp miễn dịch hoặc kiểm soát triệu chứng. Kết quả điều trị thường tốt hơn khi được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và có thể chữa khỏi. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh ung thư này ở giai đoạn 2 là 53-60%, giai đoạn 4 (giai đoạn cuối) là 3-7%.
Ung thư đại trực tràng
Hầu hết các trường hợp ung thư đại trực tràng là do polyp gây ra. Khả năng một polyp phát triển thành ung thư phụ thuộc vào loại polyp (tiền ung thư) và các tế bào bất thường (loạn sản). Lúc đầu, ung thư đại trực tràng gây ra ít hoặc không có triệu chứng.
Nội soi có thể phát hiện và điều trị ung thư này ở giai đoạn đầu. Các khối u lớn hơn thường cần phẫu thuật hoặc kết hợp với hóa trị, xạ trị, liệu pháp nhắm mục tiêu hoặc liệu pháp miễn dịch. Nếu phát hiện sớm, bệnh có thể điều trị ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống thêm 5 năm khoảng 90%. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm ước tính hiện tại đối với ung thư đại trực tràng là 64,5%.

Ung thư được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn đầu làm tăng tỷ lệ sống sót và thành công. Hình ảnh: Freepik
Ung thư vú
Ung thư vú thường gặp ở phụ nữ. Khoảng 1% ung thư vú xảy ra ở nam giới. Điều trị ung thư vú là phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc cắt bỏ khối u bảo tồn vú, kết hợp với hóa trị và xạ trị, hoặc hóa trị đơn thuần. Liệu pháp hormone làm chậm hoặc ngừng sự phát triển của các khối u đáp ứng với các hormone cụ thể estrogen. Liệu pháp sinh học sử dụng hệ thống miễn dịch của bệnh nhân ung thư vú để điều trị ung thư. Liệu pháp nhắm mục tiêu giết chết các tế bào ung thư cụ thể hoặc ngăn chặn chúng phát triển. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư vú là khoảng 90% và tỷ lệ sống sót sau 10 năm là 84%.
Ung thư tuyến tụy
Đây là một trong những bệnh ung thư có tỷ lệ tử vong cao, thường tiến triển nhanh và gây ra các triệu chứng như đau bụng, tắc ống mật, xuất huyết tiêu hóa, cổ chướng. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, hiện không có phương pháp sàng lọc nào để chẩn đoán ung thư tuyến tụy. Những người có nguy cơ cao nên siêu âm thường xuyên và xét nghiệm hình ảnh MRI hoặc CT.
Điều trị ung thư này thường bao gồm phẫu thuật và hóa trị. Xạ trị có thể được sử dụng để thu nhỏ khối u khi không thể loại bỏ chúng. Chỉ có khoảng 10-20% các trường hợp ung thư này có thể được phẫu thuật cắt bỏ để chữa khỏi ung thư. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư tuyến tụy là khoảng 5%.
Ung thư tuyến tiền liệt
Những người đàn ông lớn tuổi có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt có nguy cơ mắc loại ung thư này cao hơn. Hầu hết các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt phát triển chậm, có thể không có triệu chứng ngay lập tức. Đây là lý do nhiều người được chẩn đoán khi tế bào ung thư đã phát triển ở tuyến tiền liệt hoặc di căn. Nam giới có nguy cơ cao nên tầm soát ung thư tuyến tiền liệt định kỳ bằng xét nghiệm.
Điều trị ung thư tuyến tiền liệt bao gồm phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt (cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ tuyến), hóa trị và xạ trị. Những người đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn đầu tích cực có thể khỏi bệnh và sống hơn 5 hoặc thậm chí 10 đến 15 năm sau khi được chẩn đoán. Tỷ lệ sống tương đối 10 năm là khoảng 98% và tỷ lệ sống 15 năm là 96%.
Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến cáo, để giảm nguy cơ ung thư, mọi người nên duy trì cân nặng hợp lý, ăn uống lành mạnh, hạn chế uống rượu, bỏ thuốc lá, tập thể dục, thể thao thường xuyên. Khám sức khỏe định kỳ. định kỳ.
Mai Cát
(Dựa trên sức khỏe rất tốt)