Theo một số tài liệu nghiên cứu của bệnh viện Nhi Trung ương, ở nước ta tỷ lệ còi xương chiếm khoảng 9,4%. Bệnh còi xương ở trẻ em thường xảy ra chủ yếu ở độ tuổi dưới 3 tuổi. Bệnh làm xương mềm, xốp, biến dạng, ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.
Nguyên nhân còi xương ở trẻ em
Còi xương là bệnh do rối loạn chuyển hóa vitamin D hoặc do thiếu vitamin D. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh còi xương ở trẻ như thiếu ánh nắng – đây là nguyên nhân phổ biến nhất do thói quen kiêng khem, sợ trẻ tiếp xúc với ánh nắng. ánh sáng mặt trời. Nhà ở chật chội, thiếu ánh sáng, trẻ sinh vào mùa đông mặc quá nhiều quần áo, không được ra ngoài tắm nắng, ở vùng cao nhiều mây mù… là những nguyên nhân gây ra bệnh tự tổng hợp. vitamin D bị ảnh hưởng. Nguyên nhân thứ hai là do chế độ ăn uống không hợp lý, không cho trẻ bú mẹ thường xuyên, tiêu chảy làm giảm hấp thu vitamin D.
Cho trẻ tắm nắng để phòng thiếu vitamin D tránh còi xương.
Trẻ dễ bị còi xương là những trẻ được cho ăn bột sớm và ăn nhiều chất bột (làm ức chế hấp thu canxi). Trẻ sinh non, sinh đôi, trẻ không được bú sữa mẹ, trẻ quá mũm mĩm, trẻ sinh vào mùa đông cũng dễ mắc bệnh này.
Một nguyên nhân khác dẫn đến bệnh còi xương ở trẻ là do chế độ ăn thiếu canxi, phốt pho, các vitamin và khoáng chất khác hoặc mắc một số bệnh đường tiêu hóa làm giảm hấp thu vitamin D3. Một số ít trẻ mắc bệnh di truyền - do trong quá trình mang thai, người mẹ gặp một số vấn đề về sức khỏe và môi trường ô nhiễm cũng có thể bị ảnh hưởng.
Còi xương khác với suy dinh dưỡng, suy dinh dưỡng là do thiếu năng lượng và protein, gây chậm phát triển thể chất và “nhẹ cân”, trong khi còi xương thường xuất hiện ở những trẻ được cho ăn dặm. tràn đầy năng lượng, ngay cả ở trẻ có cân nặng cao hơn so với cùng độ tuổi. Vì vậy, nhiều bà mẹ đã không để ý, bỏ qua các dấu hiệu của bệnh, đến khi có biến chứng mới đưa con đi khám.
Phát hiện trẻ còi xương
Khi trẻ bị còi xương thường chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn đầu: Ở giai đoạn này, bệnh thường có các triệu chứng nhẹ, thường bắt đầu trong vòng 6 tháng đầu đời của trẻ, Trẻ có các biểu hiện như ngủ không ngon giấc, ra mồ hôi nhiều hoặc nổi mẩn đỏ. sẩy thai… nên chăm sóc con cẩn thận hơn.
Nếu thấy trẻ ít mọc tóc, tóc mọc khá thưa đặc biệt là phần tóc phía trước và phía sau thì khả năng trẻ bị còi xương là rất cao. Trong trường hợp này, bạn nên đưa cháu đến gặp bác sĩ để được thăm khám và tư vấn đầy đủ.
Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn còi xương ở thể nặng, bệnh cũng xuất hiện trong 6 tháng đầu đời của trẻ. Nhưng các hoạt động của trẻ kém hơn bình thường, chân tay chậm chạp, chân vòng kiềng, trên da đầu trẻ xuất hiện những mảng hói lớn… có cảm giác cứng đơ. cảm giác như một đứa trẻ không xương. Hình dạng đầu của em bé cũng được thay đổi, khu vực phía trên và phía trước hầu như lớn hơn. Xương ở cổ tay và ngón tay có xu hướng nhô ra. Bệnh còi xương có thể làm thay đổi xương chậu và trở thành một dấu hiệu nghiêm trọng về sự phát triển ở bé gái.
Bệnh còi xương có chữa được không?
Trong vòng 3 năm đầu đời, khoảng 70% trẻ có thể thoát khỏi tình trạng còi xương nếu được cha mẹ chăm sóc đúng cách.
Để phòng bệnh còi xương cho trẻ, theo các chuyên gia dinh dưỡng, tốt nhất bà mẹ mang thai và cho con bú nên ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, bổ sung sắt, canxi… và đặc biệt không được quên tắm. nắng.
- Đối với trẻ em, cho trẻ bú mẹ ngay sau khi sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Đến tuổi ăn dặm, trẻ cần ăn đủ và cân đối 4 nhóm thực phẩm: tinh bột, đạm, béo, vitamin và muối khoáng.
- Trẻ sau sinh 1 tháng nên tắm nắng mỗi ngày 15 phút vào lúc mặt trời mọc (nên trước 9 giờ sáng) và ánh nắng phải chiếu thẳng vào mu bàn tay, bàn chân, bụng, lưng, ngực.
- Vào mùa đông cần cho trẻ uống vitamin D3 để phòng bệnh. Có thể 6 tháng cho trẻ nhắc lại một lần. Ngoài ra, trong quá trình mang thai có thể bổ sung vitamin D3 khi thai được 7 tháng.
Theo Sức khỏe và Đời sống