Xạ trị hoặc xạ trị kết hợp với hóa trị liệu có thể chữa khỏi ung thư phổi giai đoạn đầu hoặc kéo dài đáng kể thời gian sống sót.

Xạ trị là một phương pháp điều trị phổ biến cho bệnh ung thư phổi. Đây là một liệu pháp tại chỗ nhằm tiêu diệt các tế bào ung thư nơi các tia bức xạ chiếu vào bằng cách làm hỏng DNA trong các tế bào khối u. Tỷ lệ thành công của xạ trị phụ thuộc vào loại bức xạ được sử dụng, giai đoạn ung thư và tình trạng của khối u. Phương pháp này được sử dụng phổ biến hơn để điều trị ung thư phổi giai đoạn đầu. Đối với các khối u lớn hoặc đã lan đến các hạch bạch huyết lân cận, xạ trị nhằm mục đích giảm kích thước khối u, sau đó là phẫu thuật hoặc tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại sau phẫu thuật. Với ung thư phổi di căn, xạ trị chủ yếu làm giảm triệu chứng và kéo dài thời gian sống thêm.

Ung thư phổi tế bào nhỏ

Ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm khoảng 13% các ca ung thư phổi và có xu hướng di căn sớm, thường là lên não. Khi khối u vẫn còn trong phổi, nó được gọi là "giai đoạn giới hạn". Xạ trị (có thể cùng với hóa trị) được sử dụng phổ biến hơn với ung thư phổi tế bào nhỏ ở giai đoạn này, giúp cải thiện khả năng sống sót. Theo Hiệp hội Ung thư Bức xạ Hoa Kỳ, trong giai đoạn đầu, xạ trị hoặc xạ trị kết hợp với hóa trị chữa khỏi cho nhiều người hoặc ít nhất là kéo dài thời gian sống sót một cách đáng kể. Xạ trị kết hợp hóa trị được áp dụng càng sớm càng tốt sau khi bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, tỷ lệ thành công cao.

Tỷ lệ sống sót chung đối với ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn giới hạn sau 5 năm dao động từ 30-35% khi tuân thủ các hướng dẫn điều trị. Xạ trị kết hợp hóa trị có thể tăng tỷ lệ sống thêm 5,4% sau 2-3 năm điều trị. Hóa trị cũng kiểm soát sự phát triển khối u cục bộ tốt hơn khoảng 25% so với hóa trị đơn thuần.

Xạ trị thường không được sử dụng để điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ di căn. Các phương pháp điều trị chính là hóa trị và liệu pháp miễn dịch (giúp hệ thống miễn dịch của chính bệnh nhân tấn công một số tế bào ung thư phổi). Xạ trị trong giai đoạn này được sử dụng chủ yếu để điều trị các triệu chứng của ung thư phổi di căn như đau đầu do di căn não và đau xương do di căn xương. Trong một số trường hợp, xạ trị được sử dụng để giảm kích thước khối u trong phổi, làm chậm sự phát triển và lan rộng của khối u di căn, đồng thời cải thiện khả năng sống sót chung. Ở giai đoạn này, rất khó chữa khỏi ung thư.

Xạ trị có thể chữa khỏi ung thư phổi giai đoạn đầu.  Ảnh: Freepik

Xạ trị có thể chữa khỏi ung thư phổi giai đoạn đầu. Hình ảnh: Freepik

Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn một (khối u trong phổi ban đầu chưa lan đến các hạch bạch huyết) có thể chữa khỏi ngay cả ở những người lớn tuổi hoặc mắc các bệnh lý gây khó khăn cho việc điều trị. ca phẫu thuật. Ở giai đoạn này, phương pháp điều trị chủ yếu vẫn là phẫu thuật, xạ trị chỉ được dùng thay thế cho phẫu thuật ở những người có khối u không thể phẫu thuật. Tỷ lệ sống sót sau một năm chung với xạ trị cục bộ cơ thể (SBRT) hoặc phẫu thuật là 91%. Sau ba năm, tỷ lệ sống sót của người dùng SBRT là 87% và phẫu thuật là 84%.

Xạ trị lập thể toàn thân là phương pháp điều trị hiệu quả đối với ung thư phổi giai đoạn đầu và giai đoạn 2. So với bức xạ tiêu chuẩn, tỷ lệ sống sót với SBRT tăng nhẹ. SBRT có hiệu quả đối với những người có khối u nằm bên ngoài phổi (phẫu thuật thường dành cho các khối u phổi trung tâm). Các khối u chưa có khả năng di căn đến các hạch bạch huyết, các khối u ở người già hoặc ở những người suy giảm chức năng phổi (tim) cũng có thể bị tiêu diệt bằng phương pháp này.

Ở giai đoạn 3, khi sự kết hợp giữa xạ trị và hóa trị liệu là tiêu chuẩn chăm sóc, liệu pháp miễn dịch bổ trợ được sử dụng cho những người không tiến triển với hóa trị liệu. Tỷ lệ sống sót sau 24 tháng đối với những người được hóa trị và liệu pháp miễn dịch là hơn 66%; người chỉ xạ trị và hóa trị là hơn 55%. Thời gian trung bình cho đến khi tử vong hoặc di căn là hơn 28 tháng ở nhóm được điều trị bằng cả ba phương pháp điều trị và hơn 16 tháng ở những người chỉ được xạ trị và hóa trị. Xạ trị ít được sử dụng hơn với ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn 4. Ở giai đoạn này, xạ trị chủ yếu nhằm mục đích giảm đau, giảm các triệu chứng như ho, khó thở, ho ra máu và kéo dài thời gian điều trị. thời gian sinh hoạt. .

Tỷ lệ thành công của xạ trị ung thư phổi còn phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, đáp ứng điều trị của từng cá nhân, tình trạng hút thuốc lá... Tỷ lệ sống thêm 5 năm chung của tất cả các giai đoạn. ở ung thư phổi tế bào nhỏ là 7%, ung thư phổi không phải tế bào nhỏ là 25%.

Mai Cát
(Dựa trên sức khỏe rất tốt)